Giải đáp Tại sao sau đại thắng Xuân 1975 nước ta phải tiến hành việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước – dangkynick.com

0

[ad_1]

Tại sao sau đại thắng xuân 1975 nước ta phải tiến hành việc thống nhất đất nước về mặt nhà nước

10 giờ 45 ngày 30.4.1975, cán bộ, chiến sĩ ta yêu cầu toàn bộ nội các chính quyền Sài Gòn, buộc Dương Văn Minh phải lên Đài Phát thanh Sài Gòn tuyên bố đầu hàng cách mạng không điều kiện Ảnh: TTXVN

Chiến thắng vĩ đại Đánh giá về tầm vóc và ý nghĩa sự kiện lịch sử này, Đại hội lần thứ IV của Đảng đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của Nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”. Đối với bạn bè quốc tế, đây được coi là một sự kiện “chấn động địa cầu”. Ngay sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, ngày 3.5.1975, báo Nhân dân lao động của Myanmar có đoạn: “Với việc giải phóng Sài Gòn, cuộc chiến tranh cuối cùng ở Đông Dương đã chấm dứt… Thất bại của Mỹ là một bằng chứng cho thấy rằng thời đại chính sách dựa vào sức mạnh đã qua rồi”. Ngày 4.5.1975, báo Phẩm giá – cơ quan ngôn luận của Đảng Dân chủ Guinea khẳng định: “Thắng lợi này của nhân dân Việt Nam là một đóng góp vô giá, một tấm gương lịch sử đối với cách mạng thế giới mà các thế hệ ngày nay và mai sau mãi mãi khâm phục, chiêm ngưỡng và cần phải học tập”. Trong khi đó, tại Mỹ, tờ Điện tín New York cho rằng, việc Mỹ dính líu vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam là “một sự hy sinh vô ích về sinh mạng và tiền của người Mỹ”, còn các bản tin hằng ngày gọi sự kiện ngày 30.4.1975 là “một chương bi thảm trong lịch sử nước Mỹ”.  Trong con mắt các nhà lãnh đạo một số nước xã hội chủ nghĩa lúc bấy giờ, đây là sự kiện lịch sử đầy ý nghĩa. L.I.Brê-giơ-nép, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô khẳng định “Thắng lợi tuyệt diệu ở miền Nam Việt Nam mở ra một giai đoạn quan trọng, nước Việt Nam độc lập, hòa bình, thống nhất và giàu mạnh”. Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước kết thúc, độc lập tự do được khôi phục, đó là tiền đề để Việt Nam bước vào giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước. Đại thắng mùa xuân là bước ngoặt lịch sử, đưa dân tộc Việt Nam chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, vì cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân Việt Nam được coi là cuộc “đụng đầu lịch sử” giữa nhân dân Việt Nam và thế giới yêu chuộng tự do, hòa bình với âm mưu bá quyền thế giới của Mỹ nên thắng lợi của cuộc kháng chiến này không chỉ ở tầm quốc gia mà có tầm quốc tế. Chính vì vậy, Chủ tịch Cu-ba Phi-đen Ca-xtơ-rô đánh giá đại thắng mùa xuân 1975 là “một trong những chiến công oanh liệt vĩ đại nhất của loài người”, “một trong những sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử hiện đại, sau thắng lợi của cách mạng Tháng Mười, sau chiến thắng chủ nghĩa phát xít”, là dấu mốc quan trọng trong tiến trình lịch sử cách mạng thế giới. Chủ tịch Triều Tiên Kim Nhật Thành khẳng định đại thắng mùa xuân năm 1975 “là thắng lợi chung của tất cả nhân dân cách mạng trên thế giới, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chống đế quốc, giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức”. Nó không chỉ là thắng lợi của một dân tộc bị áp bức (Việt Nam) chống lại chủ nghĩa thực dân mới, giành độc lập cho dân tộc mình mà là thắng lợi chung của các dân tộc bị áp bức trên thế giới trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông khẳng định “Thắng lợi của các đồng chí đã cổ vũ hết sức mạnh mẽ tất cả các dân tộc và nhân dân bị áp bức đang đấu tranh, nêu gương sáng chói cho sự nghiệp cách mạng chống đế quốc Mỹ của nhân dân toàn thế giới”.  Như vậy, thế giới đánh giá rất cao sự kiện Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân năm 1975 cả trên bình diện quốc gia và quốc tế. Đại thắng mùa xuân đã trở thành một dấu mốc quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.

Nguyên nhân thắng lợi 

Đại thắng mùa xuân năm 1975 cũng giống như chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, làm chấn động địa cầu, rung chuyển cả thế giới khi đó, khiến nước Mỹ bàng hoàng, thế giới kinh ngạc. Tổng thống Mỹ Ních-xơn phải chua chát thú nhận “Tấm thảm kịch Việt Nam đã làm tổn thương nước Mỹ, làm tổn hại chúng ta trong con mắt bạn bè nước ngoài, hạ thấp chúng ta trong con mắt đối phương. Nhưng nó làm tổn thương chúng ta nhiều nhất ở trong nước. Sự thất bại của chúng ta ở Việt Nam làm hổ thẹn một nước mà không mấy khi thất bại”.  Đi tìm nguyên nhân tại sao Mỹ lại thua cuộc tại Việt Nam luôn là vấn đề đau đáu của cả chính giới và những nhà nghiên cứu Mỹ. Sau hơn 20 năm khi cuộc chiến tranh ở Việt Nam kết thúc, R. Mắc Na-ma-ra – Bộ trưởng Quốc phòng thời kỳ Giôn-xơn làm tổng thống, trong hồi ký “Nhìn lại quá khứ, tấm thảm kịch và bài học Việt Nam” nhận ra sai lầm rằng nước Mỹ “đã đánh giá thấp sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc thúc đẩy Việt Nam đấu tranh và hy sinh cho lý tưởng và các giá trị của nó”. Nước Mỹ tiến hành xâm lược Việt Nam nhưng chưa hiểu biết sâu sắc, đầy đủ về con người, văn hóa Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam chính là nhân tố quyết định sự tồn vong, hưng thịnh của dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam đã trụ vững và tiếp tục tồn tại, phát triển trước biết bao cơn phong ba, bão táp của lịch sử là nhờ biết phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước, ý chí, quyết tâm giữ vững độc lập dân tộc, tinh thần tự cường của người Việt Nam đã được hun đúc và bồi đắp qua lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước. Đó là vũ khí tinh thần để người Việt Nam có thể đương đầu với những kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn mình gấp nhiều lần.  Nữ nghệ sĩ điện ảnh nổi tiếng người Mỹ Giên Phon-đa, trong thư gửi báo ảnh Việt Nam ngày 22.7.1972 thừa nhận “chúng tôi đã tự hỏi tại sao và làm thế nào mà một nước nhỏ bé về mặt địa lý như Việt Nam lại không sợ sức mạnh kỹ thuật của Mỹ và có thể ngăn chặn một cuộc tiến công mạnh mẽ của đủ loại vũ khí Mỹ. Chúng tôi đã đứng trước một sự thật là: bởi vì các bạn biết tại sao các bạn đang chiến đấu…”. Nếu như trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, lính Mỹ tham gia vì những bảo đảm vật chất nên họ dễ bị mất tinh thần, hoang mang, dao động, trở nên yếu đuối trước khó khăn, thất bại thì mỗi người Việt Nam đi vào cuộc chiến đấu và lao động một cách tự giác, vô tư, không đòi hỏi, với quyết tâm bảo vệ quê hương, đất nước khỏi sự nô dịch và phụ thuộc, về với quê hương, với niềm tin sâu sắc vào cuộc sống tương lai nên họ không dễ bị lung lạc về tinh thần khi gặp khó khăn, thất bại. Vì con người sống có lý tưởng cao đẹp, biết được mình đang chiến đấu, hy sinh vì cái gì, mục đích gì nên họ mạnh mẽ hơn, kiên quyết hơn và dũng cảm hơn. Và vì mỗi người Việt Nam đều có chung một ý chí, lý tưởng là kiên quyết đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giành lại độc lập, tự do cho đất nước, họ tìm thấy lợi ích riêng trong lợi ích chung đó nên họ đã gắn kết chặt chẽ với nhau tạo thành một khối thống nhất, một sức mạnh tổng lực để vượt qua mọi khó khăn, thử thách. 

Tại sao Việt Nam lại có đủ sức mạnh để đương đầu với Mỹ? Bí mật sức mạnh đó đã được các nhà nghiên cứu tìm ra ở sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam. Nhưng chỉ đó thôi dường như vẫn chưa đủ. Họ còn tìm thấy ở người Việt Nam trí tuệ, thông minh, khả năng sáng tạo, linh hoạt. Nữ văn sĩ Mỹ Ma-ri T. Mác Các-ti đã ghi vào sổ cảm tưởng của Viện Bảo tàng cách mạng Việt Nam ngày 20.3.1968: “Tôi rất xúc động trước sức mạnh sinh tồn của họ, sức mạnh này dường như bắt nguồn từ sự kết hợp trí thông minh, mưu lược và lòng tự hào”. Trí tuệ và sự thông minh tuyệt vời giúp người Việt Nam thắng Mỹ. Đó là trí tuệ của một dân tộc có truyền thống “lấy yếu đánh mạnh”, “lấy ít địch nhiều”, biết khoét sâu chỗ yếu của địch, phát huy chỗ mạnh của mình, biết làm suy yếu sức mạnh của địch và tăng cường sức mạnh cho mình. Trí thông minh, sự sáng tạo tuyệt vời ấy của dân tộc thể hiện tập trung ở sự lãnh đạo của Đảng, của Bộ Chính trị, Bộ Tổng tư lệnh của cuộc kháng chiến. Đó là nguyên nhân tạo nên sức mạnh Việt Nam…

 T. H (tổng hợp)

Năm nay, mọi hoạt động vẫn được chuẩn bị chu đáo, kỹ càng, thấm đẫm tinh thần dân tộc, nhưng lãnh đạo Đảng, Nhà nước, toàn quân và nhân dân Việt Nam vừa tự hào mừng ngày vui của đất nước vừa không quên cuộc chiến mới mang tên Covid-19.

Sáng 30/4, tại Quảng trường Ba Đình, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh và tỏ lòng thành kính, biết ơn vô hạn với công lao của Bác Hồ đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc Việt Nam.

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, Ngô Xuân Lịch khi nói về cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, ngày đất nước được hoàn toàn giải phóng đã khẳng định, đây là thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn khát vọng hòa bình, độc lập và tự do.

Bí mật về sức mạnh dân tộc Việt Nam – yếu tố làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975 chính là việc phát huy sức mạnh tổng hợp, sự đoàn kết quân với dân đồng lòng, cùng chung một ý chí. Đây cũng là nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam làm nên chiến thắng vang dội trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Trong thời đại mới, thông qua hợp tác, hòa bình, Việt Nam đang nỗ lực xây dựng lòng tin, tạo thế cân bằng chiến lược, đan xen lợi ích, xử lý hài hòa mối quan hệ với các nước lớn, không để bị hiểu lầm, nghi kỵ giữa Việt Nam với các nước và giữa các nước với nhau, qua đó, tiếp tục khẳng định chính sách đối ngoại quốc phòng nhất quán, đúng đắn, rộng mở của Hà Nội.

Xem thêm  Giải đáp Tại sao tin nhắn messenger không gửi được

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước viếng Lăng Bác nhân 45 năm thống nhất đất nước

Sáng nay, 30/4, nhân kỷ niệm 45 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975-30/4/2020), đoàn đại biểu lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã đến đặt vòng hoa, vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh và dâng hương, tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ tại Đài Tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ trên đường Bắc Sơn.

Đồng thời, Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh thực hiện Nghi lễ thượng cờ trên quảng trường Ba Đình nhân sự kiện quan trọng của đất nước. Đây là nghi thức thiêng liêng, khơi dậy niềm tự hào dân tộc nơi mỗi người Việt Nam và sâu thẳm trong mỗi người, vừa là sự kính trọng dành cho những người đã ngã xuống vì độc lập tự do của dân tộc, vừa là khát khao mạnh mẽ, đưa Việt Nam tiến lên, trở thành quốc gia phát triển, thịnh vượng, người dân được hưởng những gì tốt đẹp nhất, “sánh vai với các cường quốc năm châu” như mong mỏi của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Đoàn lãnh đạo Đảng, Nhà nước đến viếng lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng 30/4 gồm có Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, nguyên Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh, nguyên Chủ tịch nước Trần Đức Lương, nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, Thường trực Ban Bí thư Trần Quốc Vượng, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng và lãnh đạo các ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương.

Trước anh linh Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị anh hùng của dân tộc Việt Nam, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước thành kính bày tỏ lòng biết ơn vô hạn với công lao của Người đối với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc Việt Nam.

Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến cho nhân dân, cho đất nước, dẫn dắt, soi đường chỉ lối cho Đảng, cho nhân dân làm nên những thắng lợi vẻ vang.

Thực hiện di nguyện thiêng liêng của Bác Hồ, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân Việt Nam đã hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, để đất nước được như ngày nay.

Phải khẳng định, ngày 30/4/1975 đã đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam như một mốc son chói lọi, một trang sử hào hùng trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Từ mốc son ấy, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Việt Nam có thể tập trung sức lực và trí tuệ để hàn gắn vết thương chiến tranh, tích cực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng, toàn diện.

Sau khi vào Lăng viếng Chủ tịch Hồ Chí Minh, đoàn lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã tới đặt vòng hoa, dâng hương, tưởng niệm các Anh hùng liệt sỹ tại Đài Tưởng niệm các Anh hùng liệt sĩ trên đường Bắc Sơn.

Trong không khí trang nghiêm, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước bày tỏ lòng tưởng nhớ những người con ưu tú của dân tộc đã không tiếc máu xương, dũng cảm chiến đấu, hy sinh vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Dòng chữ trên vòng hoa của Đoàn viết: “Đời đời nhớ ơn các Anh hùng liệt sỹ.”

Sau khi viếng Đài tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ, đoàn đại biểu lãnh đạo Đảng, Nhà nước đến dâng hương tại thềm rồng điện Kính Thiên, Khu di sản Hoàng thành Thăng Long và thăm di tích cách mạng Nhà và Hầm D67.

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Ngày 30/4/1975 đã đi vào lịch sử dân tộc như một mốc son chói lọi. Từ đây, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Việt Nam đã tập trung sức lực và trí tuệ vượt qua những mất mát đau thương của chiến tranh, tích cực xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa và đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, toàn diện trên mọi mặt trận từ chính trị ngoại giao, kinh tế, quân sự quốc phòng đến văn hóa tinh thần.

Nhân dịp kỷ niệm 45 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đại tướng Ngô Xuân Lịch, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đã trả lời phỏng vấn TTXVN về chủ đề phát huy sức mạnh của ý chí thống nhất đất nước, nhìn từ chiến thắng lịch sử mùa Xuân năm 1975 đến những thách thức “phi truyền thống” trong thời đại hiện nay.

Chia sẻ cảm nghĩ trong vai trò vừa là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam, vừa là người đã trực tiếp tham gia chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch đã có những nhận định sâu sắc về ý nghĩa lịch sử của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử và vai trò của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong quá trình giải phóng hoàn toàn đất nước.

Theo đó, Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch nhấn mạnh, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử là cuộc đấu trí, đấu lực quyết liệt nhất giữa ta và địch trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và cuối cùng chúng ta đã giành thắng lợi vẻ vang.

Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Bác Hồ kính yêu, sự chỉ đạo, điều hành, tổ chức, chỉ huy mưu lược, trí tuệ, sáng tạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng Tư lệnh, quân và dân cả nước đã anh dũng, kiên cường, chiến đấu, hy sinh, lập nên những chiến công oanh liệt, “đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào,” kết thúc toàn thắng cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tạo ra một kỳ tích lịch sử vĩ đại của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX.

“Đây là thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn – của khát vọng hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất đất nước, đánh dấu một mốc son chói lọi, viết tiếp trang sử hào hùng trong chặng đường dựng nước và giữ nước qua hàng nghìn năm lịch sử của dân tộc Việt Nam anh hùng”, Đại tướng Ngô Xuân Lịch khẳng định.

Theo người đứng đầu Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng như những gì lịch sử đã chứng minh, chiến thắng mùa Xuân năm 1975 đã giải phóng nhân dân miền Nam thoát khỏi ách thống trị của đế quốc và tay sai, kết thúc 21 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước và 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, chấm dứt việc các cường quốc thế giới can thiệp quân sự trực tiếp vào Việt Nam trong suốt hơn 100 năm.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đã lật đổ chế độ đế quốc và tay sai, mở đường cho sự hoàn thành trọn vẹn sự nghiệp cách mạng dân chủ nhân dân, là một sự kiện trọng đại trong lịch sử dân tộc, mở ra một thời kỳ mới, đưa cả nước vững bước vào kỷ nguyên độc lập, thống nhất và tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

“Đối với thế giới, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã đập tan cuộc phản kích lớn nhất vào các lực lượng của tên đế quốc đầu sỏ, phá vỡ phòng tuyến ngăn chặn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và sự mở rộng của chủ nghĩa xã hội ở khu vực Đông Nam Á, góp phần làm đảo lộn chiến lược toàn cầu của đế quốc Mỹ”, đồng chí Ngô Xuân Lịch nhấn mạnh.

Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam cũng đánh giá: Đây là nguồn cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc và dân chủ tiến bộ trên thế giới, tiếp tục chứng minh chân lý của thời đại rằng, một dân tộc kiên quyết chống chủ nghĩa đế quốc có đường lối lãnh đạo đúng đắn, có sự đồng tình giúp đỡ của quốc tế nhất định sẽ giành được thắng lợi.

Nói về vai trò của Quân đội Nhân dân Việt Nam đối với thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, Đại tướng Ngô Xuân Lịch cho là rất to lớn.

“Bởi đây là lực lượng nòng cốt, chủ yếu, luôn sát cánh cùng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo nên sức mạnh tổng hợp thực hiện thắng lợi mục tiêu giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước”, đồng chí Bộ trưởng lý giải nhận định của mình.

Thực tế, bằng sức mạnh hiệp đồng quân chủng, binh chủng tiến công dũng mãnh, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng của các quân đoàn, sư đoàn chủ lực kết hợp với lực lượng vũ trang tại chỗ và sự nổi dậy của quần chúng nhân dân, chúng ta đã lần lượt tiến hành ba đòn tiến công chiến lược và giành thắng lợi trong các chiến dịch: Tây Nguyên, Huế-Đà Nẵng và Sài Gòn-Gia Định.

Đặc biệt, trong trận quyết chiến chiến lược mang tên Bác Hồ kính yêu-Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, năm cánh quân hùng dũng của Quân đội ta đã “thần tốc, táo bạo,” đồng loạt tiến công mãnh liệt, đập tan các tuyến phòng thủ, tiêu diệt cơ quan đầu não của địch.

Đúng 11 giờ 30 phút ngày 30/4/1975, lá cờ của Quân giải phóng đã tung bay trên nóc Dinh Độc Lập – sào huyệt cuối cùng của chính quyền và quân đội Sài Gòn, báo hiệu Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam.

“Chiến công này đã đi vào lịch sử dân tộc như một biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong thời đại Hồ Chí Minh, là niềm tự hào chung của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta”, Đại tướng Ngô Xuân Lịch nhấn mạnh.

Nhận định về yếu tố tối quan trọng tạo nên chiến thăng vang dội, chấn động địa cầu của nhân dân Việt Nam ngày 30 tháng 4 năm 1975 – cụ thể là việc phát huy sức mạnh đoàn kết “quân với dân một ý chí”, Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch nêu rõ, việc xác định phương thức tiến hành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 đã khái quát đầy đủ nội hàm của việc phát huy sức mạnh đoàn kết “quân với dân một ý chí”.

Để giành thắng lợi vang dội trên các chiến trường, ngoài yếu tố quyết định là sự lãnh đạo, chỉ đạo sáng suốt, tài tình của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền tảng tạo nên sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi đó là sự đoàn kết quân và dân.

“Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân phục vụ, dù bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, cán bộ, chiến sĩ Quân đội luôn gắn bó mật thiết với nhân dân”, Đại tướng Ngô Xuân Lịch khẳng định.

Theo người đứng đầu Bộ Quốc phòng, ý chí đoàn kết đó thể hiện quyết tâm, khát vọng giành bằng được độc lập, tự do, thống nhất đất nước của quân và dân ta.

Xem thêm  Giải đáp Vi sao ko nên thiết kế vườn độc canh

Theo Đại tướng, phương thức tác chiến kết hợp các đòn tiến công địch bằng sức mạnh của các binh đoàn cơ động chủ lực với sự nổi dậy của quần chúng nhân dân giành quyền làm chủ ở các địa phương đã tạo nên sức mạnh tổng hợp to lớn đánh thắng địch.

“Cần khẳng định thêm rằng, nếu không có các cơ sở cách mạng của ta trong nội đô và sự đùm bọc, che chở của nhân dân thì việc giành thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 là rất khó khăn”, đồng chí Bộ trưởng tái khẳng định.

Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch nhấn mạnh, việc phát huy sức mạnh tổng hợp, sự đoàn kết “quân với dân một ý chí” là nét đặc sắc của nghệ thuật quân sự Việt Nam làm nên chiến thắng vang dội trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Việt Nam tạo thế cân bằng chiến lược, không gây hiểu lầm nghi kỵ

Nói về triển vọng hợp tác quốc phòng song phương và đa phương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng nêu rõ, Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng theo phương châm “Tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả.” Do vậy, “thống nhất, hòa bình, ổn định” không chỉ là mục tiêu, điều kiện cần, mà còn là điều kiện đủ để đất nước ta mở rộng hợp tác quốc tế theo xu thế phát triển của thời đại, trong đó, hợp tác quốc phòng cũng cần những điều kiện cơ bản đó.

Cụ thể, với quyết tâm chính trị và tinh thần chủ động, sáng tạo, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân triển khai đồng bộ, toàn diện các mặt công tác đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới- trước bối cảnh thế giới, khu vực diễn biến phức tạp, đã và đang tác động không nhỏ đến hoạt động đối ngoại của đất nước nói chung và công tác đối ngoại quốc phòng nói riêng.

Theo Đại tướng Lịch, công tác đối ngoại quốc phòng biên giới được đẩy mạnh, các cuộc gặp giữa lãnh đạo Bộ Quốc phòng với các nước được tăng cường, với sự đồng thuận về nhận thức, bàn thảo các giải pháp hóa giải những vấn đề còn tồn tại.

“Đồng thời, tận dụng tốt các diễn đàn đa phương, nhất là các diễn đàn trong khuôn khổ ASEAN, như Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị an ninh châu Á (Đối thoại Shangri-La) để vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với việc giữ vững chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc”, người đứng đầu Bộ Quốc phòng Việt Nam nêu rõ.

Theo Bộ trưởng Lịch, thời gian tới, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn trên thế giới, cùng với việc giữ vững sự ổn định tình hình trong nước sẽ là môi trường thuận lợi để Việt Nam thực hiện thắng lợi các mục tiêu về công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế.

Đồng thời, Việt Nam tiếp tục thúc đẩy các quan hệ, hợp tác về quốc phòng, an ninh với các đối tác chủ chốt, phù hợp với quan hệ song phương theo các khuôn khổ của đối tác chiến lược toàn diện, đối tác chiến lược và đối tác hợp tác toàn diện, tập trung vào những lĩnh vực phù hợp, có trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải, phân tán nguồn lực.

“Trong đó, ưu tiên quan hệ, hợp tác quốc phòng với các nước láng giềng, củng cố tình hữu nghị, xây dựng đường biên giới hòa bình, tạo vành đai an ninh, an toàn, ổn định trên tuyến biên giới phía Bắc và phía Tây, Tây Nam của đất nước”, Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch cho biết.

Như đã thấy, thời gian qua, Việt Nam chủ động thúc đẩy quan hệ, hợp tác quốc phòng với các nước lớn và các nước ASEAN trên cơ sở những văn bản đã ký kết, chú trọng lĩnh vực mà ta đang cần tăng cường năng lực như an ninh biển, an ninh mạng, đào tạo, tìm kiếm cứu nạn, khắc phục hậu quả chiến tranh.

Đặc biệt, theo Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch, năm 2020, Việt Nam là Chủ tịch ASEAN, Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021, sẽ là điều kiện thuận lợi để công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước nói chung và đối ngoại quốc phòng nói riêng thêm khởi sắc, khẳng định rõ hơn vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

“Thông qua hợp tác, xây dựng lòng tin, tạo thế cân bằng chiến lược, đan xen lợi ích, xử lý hài hòa mối quan hệ với các nước lớn, không để bị hiểu lầm, nghi kỵ giữa nước ta với các nước và giữa các nước với nhau, qua đó, tiếp tục khẳng định chính sách đối ngoại quốc phòng nhất quán, đúng đắn, rộng mở của Việt Nam”, Đại tướng Ngô Xuân Lịch nêu rõ.

Theo Bộ trưởng, với các nước bạn bè truyền thống, tiếp tục duy trì quan hệ, củng cố lòng tin, tạo sự ủng hộ về chính trị đối với Việt Nam. Đồng thời, phát huy kết quả trong hội nhập quốc tế về quốc phòng thông qua việc ký với Liên minh châu Âu (EU) về thiết lập khuôn khổ Việt Nam tham gia các hoạt động quản lý khủng hoảng của EU (FPA) và việc Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 1 hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc tại Nam Sudan và triển khai Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 2 thay thế, tiếp tục chuẩn bị triển khai Đội Công binh làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình theo yêu cầu của Liên hợp quốc, đóng góp vào nền hòa bình và ổn định chung của khu vực cũng như thế giới.

Xây dựng Quân đội tinh, gọn: Lực lượng tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân

Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch chia sẻ, với bề dày truyền thống hơn 75 xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ một đội quân với 34 cán bộ, chiến sỹ cùng trang bị vũ khí thô sơ, nhưng chưa đầy một năm sau Quân đội Nhân dân Việt Nam đã cùng toàn dân tiến hành cuộc tổng khởi nghĩa làm nên thành công của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành chính quyền về tay nhân dân, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á.

Tiếp đó, đánh thắng hai đế quốc to là Pháp và Mỹ, giành độc lập, tự do thu non sông về một mối. Sau ngày đất nước thống nhất, Quân đội Việt Nam đã cùng toàn dân tiến hành thắng lợi hai cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

“Trong cuộc trường chinh vĩ đại đó, Quân đội Nhân dân Việt Nam không chỉ hoàn thành nhiệm vụ cách mạng đối với dân tộc mà còn hoàn thành nghĩa vụ quốc tế vẻ vang, góp phần xứng đáng vào cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới”, Bộ trưởng Lịch khẳng định.

Theo Đại tướng Lịch, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân triển khai đồng bộ, toàn diện nhiều giải pháp xây dựng Quân đội theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng, lực lượng.

Cụ thể, trước hết là tập trung xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tạo nền tảng vững chắc nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu, đảm bảo cho Quân đội luôn giữ vững phương hướng, mục tiêu chiến đấu, tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 05 ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới.

Đồng thời, trong toàn quân đẩy mạnh hoạt động công tác dân vận, nhất là phong trào “Quân đội chung tay xây dựng nông thôn mới”, “Quân đội chung tay vì người nghèo-Không để ai bị bỏ lại phía sau” như tâm niệm của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Chính phủ Việt Nam.

“Toàn quân tích cực triển khai thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, kết luận của Bộ Chính trị về tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam đến năm 2021, bảo đảm vũ khí, trang bị đến năm 2025, tích cực sắp xếp, điều chỉnh tổ chức, biên chế theo hướng “tinh, gọn, mạnh”, Bộ trưởng Ngô Xuân Lịch cho biết.

Theo người đứng đầu Bộ Quốc phòng, toàn quân đẩy mạnh đổi mới, nâng cao chất lượng công tác huấn luyện, giáo dục, đào tạo, rèn luyện kỷ luật, thể chất, xây dựng chính quy, xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện, “mẫu mực, tiêu biểu;” tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết số 765 của Quân ủy Trung ương về nâng cao chất lượng huấn luyện giai đoạn 2013-2020 và những năm tiếp theo. Đồng thời, chú trọng đổi mới nội dung, hình thức tổ chức, phương pháp huấn luyện, diễn tập theo phương châm “cơ bản, thiết thực, vững chắc,” coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, sát nhiệm vụ, thực tế chiến đấu, đối tượng tác chiến và tổ chức biên chế, trang bị, yêu cầu tác chiến trong điều kiện chiến tranh công nghệ cao.

“Đặc biệt, tập trung tạo sự chuyển biến về chất lượng huấn luyện làm chủ vũ khí, trang bị thể hệ mới, hiện đại, huấn luyện, diễn tập tác chiến hiệp đồng quân, binh chủng, diễn tập đối kháng trong các môi trường và tác chiến khu vực phòng thủ, làm cơ sở để nâng cao trình độ, năng lực tác chiến của Quân đội”, Đại tướng Ngô Xuân Lịch bày tỏ.

Theo Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, các cơ quan, đơn vị trong toàn quân cần chủ động phát huy thành tựu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đẩy mạnh ứng dụng thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào nghiên cứu phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam, khoa học và công nghệ quân sự, công nghiệp quốc phòng, thúc đẩy nhanh hơn nữa tiến trình hiện đại hóa Quân đội.

“Trước hết là các lực lượng được xác định tiến thẳng lên hiện đại, tạo bước chuyển mới, mang tính đột phá về trình độ, khả năng sẵn sàng chiến đấu, sức mạnh chiến đấu của quân đội, xứng đáng là công cụ sắc bén, lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, bảo vệ  vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới”, Bộ trưởng nhấn mạnh.“Phát huy tinh thần và hào khí của Đại thắng mùa Xuân năm 1975, tôi tin tưởng rằng, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta tiếp tục đoàn kết, chung sức, đồng lòng, nỗ lực phấn đấu, hoàn thành thắng lợi công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường, ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong muốn”, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam khẳng định.

[ad_2]

Bài trướcGiáo Trình Sketchup Tự Học Từ Cơ Bản, Nâng Cao
Bài tiếp theoChuyển youtube sang mp3 đơn giản, hiệu quả nhất

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây